Tên việt nam: Ba đậu
Tên khoa học: Croton tiglium L.
Tên đồng nghĩa: Cây Mần đề
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Thực vật
Họ: Thầu dầu (tên khoa học là Euphorbiaceae)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Ít nguy cấp (LG)
Phân hệ: Ít lo ngại (lc)
Công dụng: Chữa ho, hen
Độ cao: <100m
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Cây gỗ nhỏ cao 3 – 6 m. Lá mọc so le, mép khía răng. Lá non màu hồng đỏ. Hoa mọc thành chùm, hoa đực ở phía ngọn, hoa cái ở phía gốc. Quả nang nhẵn, màu vàng nhạt. Hạt có vỏ cứng màu vàng nâu xám.
Bộ phận dùng: Hạt, lá, rễ.
Phân bố địa lý: Cây của vùng Ấn Độ Mã Lai, mọc hoang ở ven đồi và suối. Thường trồng lấy bóng mát ở các trường học.
Hạt thu hái ở những quả chín nhưng chưa nứt vỏ. Để nguyên quả, khi dùng mới gỡ hạt. Rễ thu hái quanh năm, rửa sạch, thái phiến, phơi khô dùng.
Tính chất và tác dụng: Hạt có vị cay, tính nóng, rất độc. Có công năng phá tích, trục đờm, hành thủy. Rễ và lá có vị cay và nóng, có độc, có tác dụng ôn trung, tán hàn, khu phong, tiêu thũng. Hạt chứa khoảng 50% dầu mùi khó chịu chứa các glyxerit axit trung hòa và không trung hòa không có tính tẩy. Hạt có tính chất tẩy do nhựa hòa tan trong dầu chứa các yếu tố phenolic gây bỏng da. Trong hạt có một glycozit là crotonozit, một anbuminoza rất độc là crotin, một ancaloit gần như rixinin trong hạt thầu dầu.
Công dụng: Hạt dùng chữa hàn tích đình trệ, bụng đầy trướng, đại tiện bí kết (tắt nghẽn ruột), ho nhiều đờm loãng, đau tức ngực, bạch hầu và sốt rét.
Rễ dùng trị thấp khớp dạng thống phong, bọc máu, đòn ngã, rắn cắn. Lá dùng bên ngoài khi bị phát cước hoặc làm thuốc sát trùng.
Thường dùng hạt dưới hình thức ba đậu sương nghĩa là hạt ba đậu đã ép bỏ hết dầu đi mới dùng với liều 0,01 – 0,05g, lại thường phối hợp với nhiều vị thuốc khác. Rễ dùng liều 3 – 10g. Lá có thể dùng tươi giã đắp hoặc tán làm bột sát trùng.
Đơn thuốc: Trị nọc độc rắn cắn: Rễ ba đậu 30g, ngâm trong 1 lít rượu, lấy nước đắp ngoài. Dùng lá khô tán bột 0,5g uống với nước mát, ngày 1 lần
Chú ý: Bệnh thực nhiệt, táo bón, phụ nữ có thai không dùng. Ba đậu rất độc, không dùng quá liều. Nếu ngộ độc, dùng đậu đen hoặc đậu xanh nấu nước uống để giải độc.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại tỉnh tại An Giang: Khuyến khích trồng và cấm chặt phá.
Th.Sỹ. Bành Lê Quốc An.
Sưu tầm từ nguồn: Cây thuốc An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.22.