Tên việt nam: Bàng hôi
Tên khoa học: Terminalia bellirica (Gaertn.) Roxb., 1805
Tên đồng nghĩa: Bàng nước, Nhứt, Bàng mốc, Choại, Mung trằng, Bông dêu.
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Bộ: Sim (tên khoa học là Myrtales)
Họ: Bàng (tên khoa học là Combretaceae)
Chi: Chiêu liêu (tên khoa học là Terminalia)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Công dụng: Lỵ, Tiêu hóa, Tiêu chảy, đau bụng
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Cây gỗ lớn rụng lá, cao 30-35m. Lá hình trái xoan ngược hay gần như bầu dục, không cân ở gốc, chóp tròn hoặc gần như lượn sống. Cả hai mặt đều nhẵn, nhưng có những diểm chấm trắng rải rác ở mặt dưới, dài 14-20cm, rộng 8-13cm. Cụm hoa bông đầy lông hung hung, gồm cả hoa đực và hoa lưỡng tính. Đài 5. Nhị 10. Quả không có cánh, hỉnh trứng ngược, tròn ở đỉnh, thon lại ở gốc thành một cuống ngắn màu dỏ tím có lông nhung ngắn mịn, cao 2- 3cm, dày 1,5-2cm, chia 5 múi khá rõ. Hạt đơn độc hình cầu.
Bộ phận dừng: Quả.
Phân bố, sinh thái: Cây gặp ở độ cao dưới 1.300m ở các sườn núi hoặc trong các rừng kín, khá phổ biến ở miền Nam nước ta. Ưa đất bồi ven suối. Ra hoa tháng 10-11, có quả tháng 11-12. Thu hái quả chín, phơi khô.
Tính chất, tác dụng và công dụng: Quả phơi khô màu nâu, vị se chát, dùng như vị Kha tử. Có thể thuộc da và nhuộm vải màu đen. Lúc xanh, nó gây xổ, khi già nó làm săn da. Ở Ấn Độ, người ta sử dụng rộng rãi trị ỉa chảy, trĩ và thủy thũng.
Nhân hạt nếu ăn nhiều sẽ gây ngủ. Trong nhân chứa 25% một chất dầu trong, vàng, không mùi và vô vị. Nhựa cây cho một chất gôm, khi cho vào nước sẽ tạo thành một khối keo vô vị.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Khuyến khích gây trồng sử dụng.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Cây thuốc An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.41.