Tên việt nam: Cây Bìm bịp
Tên khoa học: Clinacanthus Nutans (Burn f) Linlau
Tên đồng nghĩa: Bìm bịp, Xương khỉ, Mảnh cộng
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Bộ: Lamiales (tên khoa học là Lamiales)
Họ: Ô rô (tên khoa học là Acanthaceae)
Chi: Clinacanthus (tên khoa học là Clinacanthus)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Công dụng: Tai, mắt, mũi, răng, họng
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Cây nhỏ, mọc trườn. Lá nguyên, có cuống ngắn, phiến hình mác hay thuôn, mặt hơi nhẵn, mép hơi giún, màu xanh thẫm. Bông rủ xuống ở ngọn. Lá bắc hẹp. Hoa đỏ hay hồng cao 3-5cm. Tràng hoa có hai môi, môi dưới có 3 răng. Quả nang dài 1,5cm, chứa 4 hạt..
Bộ phận dùng: Phần cây trên mặt đất (Cả cây bỏ rễ).
Phân bố, sinh thái: Cây của Đông dương và Mã Lai, mọc hoang ở hàng rào, bờ bụi ở nhiều nơi, và cũng thường được trồng. Có thể thu hái cây và lá quanh năm, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Tính chất và tác dụng: Chưa có tài liệu nghiên cứu.
Trong Đổng y, người ta cho rằng cây có tác dụng điều kinh, tiêu thũng, khử ứ, giảm dau, liền xương.
Công dụng: Lá khô có mùi thơm như mùi cơm nếp, thường dùng để ưóp bánh (bánh mảnh cộng). Lá giã ra dắp vào mí mắt chữa đau sưng mắt. Lá tươi giã ra và xào nóng bó trặc gân, sưng khớp.
Cả cây bỏ rễ dùng trị dao chém thương tích, làm thuốc đắp liền xương, đắp vết thương trâu bò húc. Còn dùng chửa thiếu máu, hoàng đản, phong thấp.
Thường dùng cành lá khô sắc uống. Dùng ngoài lấy lá tươi giã đắp.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Hiện nay loài cây này rất hiếm gặp trên vùng núi. Cần bảo vệ để mở rộng quần thể.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Cây thuốc An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.78.