Tên việt nam: Cúc Dại
Tên khoa học: Grangea Maderaspatana (L.) Poir
Tên đồng nghĩa: Artemisia maderaspatana L.; Cotula maderaspatana (L.) Willd.; C. anthemoides Lour.
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Ngọc Lan (tên khoa học là Magnoliophyta)
Lớp: Ngọc Lan (tên khoa học là Magnoliophyta)
Bộ: Cúc (tên khoa học là Asterales)
Họ: Cúc (tên khoa học là Asteraceae)
Chi: Grangea (tên khoa học là Grangea)
Thuộc: Sách đỏ
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Công dụng: Trị bệnh phụ nữ
Đặc điểm nhận dạng:
Tên khác Rau cóc, Chân cua bồ cóc, Nụ áo, Cúc dại vàng, hay Cải đồng
Mô tả: Cây thảo sống hằng năm, phân cành từ gốc. Cành có rãnh. Lá mọc so le, gần hình bầu dục, chóp lá tù, gốc thuôn, có 2-5 đôi thuỳ lông chim, hai mặt lá đều có lông dài, trắng. Cụm hoa là những đầu ở ngọn hoặc ở nách lá, đối diện với lá, thường đơn độc, màu vàng. Lá bắc 2-3 hàng, có lông. Trong đầu hoa, có hoa cái và hoa lưỡng tính. Quả bế hơi dẹt, có 3 cạnh mờ. Ra hoa tháng 12-4, có quả tháng 4-5.
Bộ phận dùng: Cành lá.
Phân bố, sinh thái: Loài ở nhiệt đới, mọc hoang ở các ruộng khô hay ẩm, các bãi cát. Cây ưa sáng, mọc nhiều vào mùa khô.
Thu hái cành, lá quanh năm. Thường dùng tươi.
Tính chất và tác dụng: Cúc dại có vị đắng, tính mát, có tác dụng làm dịu và sát trùng. Lá bả dạ dày, kích thích tiêu hóa, sát trùng.
Công dụng: Cành lá dùng uống trong làm dễ tiêu hóa. Lá sao vàng sắc uống dùng để trị ho sau khi sinh đè và làm điều kinh trở lại đối với người đẻ, nhất là khi sợ chậm trễ về kinh nguyệt lại kèm theo chứng đau bụng và đau thận.
Dùng ngoài hơ nóng để chườm làm thuốc sát trùng.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Không đánh giá.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Cây thuốc An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.174.