Tên việt nam: Bông vàng
Tên khoa học: Allamanda cathartica L.
Tên đồng nghĩa: Bông vàng, Dây huỳnh
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Bộ: Long đởm (tên khoa học là Gentianales)
Họ: Trúc đào (tên khoa học là Apocynaceae)
Chi: Allamanda (tên khoa học là Allamanda)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Công dụng: Lỵ, Tiêu hóa, Tiêu chảy, đau bụng
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tà: Cây nhỏ mọc thành bụi, trườn, có mủ trắng, không lông; nhánh tròn, cỡ 1cm, có cành dọc. Lá to mọc đối hay vòng 3-6, hình thuôn dài, đầu nhọn. Hoa mọc thành chuỳ gần ngọn, màu vàng tươi, to, gần như đều; lá đài rời, xanh, 3 to, 2 nhỏ; tràng có một ống hẹp rời rộng; 5 nhị đính ở trên phần hẹp, 5 vảy có lông; bầu hình trứng 1 ô, chứa nhiều noãn. Quả nang có gai, mở thành 2 van cứng; hạt ít.
Phân bố, sinh thái: Gốc ở Mỹ châu nhiệt đới (Brazin, Guyan), được trồng khắp nơi làm cảnh vi có hoa đẹp hầu như quanh năm, chủ yếu vào tháng 9-10.
Tính chất, công dụng: vỏ cây, nhựa và hạt có độc, người và gia súc ăn nhiều sẽ bị đau bụng. Tính chất chung của chúng là tẩy xổ. Bộ phận dùng là Cành, lá và nhựa. Cành sắc uống làm thuốc tẩy, tri sốt, sốt rét, tê thấp.
Lá hãm uống tẩy và chữa bệnh táo bón dai dẳng sau khi bị nhiễm độc chì. Thuốc hãm của lá tẩy nhẹ với liều 10/1000,vởi liều cao, nó gây xổ và gây nôn. Nhựa mủ là một loại thuốc tẩy nhirng ít được dùng hơn. Nó gây xổ ở liều 8-10 giọt trong một pôxio thích đáng. Với liều cao hon sẽ là chất tẩy mạnh.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang:
Là loài cây được sử dụng làm cảnh, khuyến khích gây trồng để sử dụng
Bành Lê Quốc An, sưu tầm và biên soạn.
Nguồn: Cây thuốc An Giang, Võ Văn Chi, UBKH và KT, 1991, tr.62.