Tên việt nam: Cù Đèn lá bạc
Tên khoa học: Croton Cascarilloides Raeusch. (C. cumingii Muell - Arg.)
Tên đồng nghĩa: Cù đèn Cuming, Khai đen
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Ngọc Lan (tên khoa học là Magnoliophyta)
Lớp: Ngọc Lan (tên khoa học là Magnoliophyta)
Bộ: Sơ ri (tên khoa học là Malpighiales)
Họ: Thầu dầu (tên khoa học là Euphorbiaceae)
Chi: Ba Đậu (tên khoa học là Croton)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Công dụng: Thuốc bổ
Đặc điểm nhận dạng:
Tên khác Cù đèn Cuming, Khai đen
Mô tả: Cây nhỡ cao 0,40m; các nhánh non phủ lông hình khiên, nhưng rồi hoá nhẵn, có màu đen đen. Lá hình mũi mác, hình dải hay trái xoan, thon và tù ở gốc, nhọn lại ở đầu; mặt trên lúc non có lông hình sao thưa thớt rồi nhẵn, mặt dưới có lông hình khiên và trắng bạc hoặc điểm những chấm màu đỏ hoe, dài 8-12cm, rộng 15-45cm; gân hình lông chim. Hoa xếp thành bông ở ngọn, thường từng đôi, dài 1-4cm; hoa đực ở phía ngọn, hoa cái ở phía gốc, phủ lông hình khiên đỏ hoe hay trắng bạc. Quả nang hình cầu, có 3 cạnh, với 3 u bướu ở đỉnh, màu trắng bạc hay đỏ hoe. Hạt hình bầu dục hơi dẹt, dài 4mm, có mũi nhọn ở đỉnh.
Bộ phận dừng: Rễ, gỗ cây.
Phân bố, sinh thái: Cây của vùng Đông Dương và Malaixia, mọc hoang trong rừng thứ sinh, rừng rậm núi Dài, núi Dài nhỏ, núi Nổi *Thới Sơn) và núi cấm. Cũng được trồng. Cổ thể thu hái rễ cây và gỗ quanh năm.
Tinh chất và tác dụng: Chưa có tài liệu nghiên cứu.
Công dụng: Dân gian sử dụng làm thuốc bồ máu, chữa nhức mỏi tê bại và cảm sốt. Cũng được dùng tương tự như cây Cù đèn.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Hiện nay loài cây này bắt đầu khang hiếm trên vùng núi. Cần bảo vệ.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Cây thuốc An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.168.