Tên việt nam: Chuối hột
Tên khoa học: Musa Balbisiana Colla
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Bộ: Gừng (tên khoa học là Zingiberales)
Họ: Chuối (tên khoa học là Musaceae)
Chi: Chuối (tên khoa học là Musa)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Công dụng: Trị đái tháo đường
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Thân giả cao 2-4m, to, màu xanh. Lá to, xanh hơi mốc mốc, bẹ xanh. Buồng hoa nằm ngang; mo đỏ sẫm. Quả có cạnh, thịt quả nạc chữa nhiều hạt to 4- 5mm.
Bộ phận dùng: Rễ, thân cây và quả đều dùng được.
Phân bố sinh thái: Cây của miền Đông dương và Mã Lai, mọc hoang nơi đất thấp và cũng dược trồng lấy lá gói đồ, bắp và quả làm gỏi ngon. Thường dùng quả xanh, gọt bót vỏ ngoài, cắt từng khoanh tròn chấm nước mắm, mắm tôm ăn. Các bộ phận dùng làm thuốc cố thể thu hái quanh năm.
Tính chất và tác dụng: Chuối hột giải mọi thứ độc, lương huyết, thoái nhiệt, giải phiền khát, lợi tiểu, tiêu cơm, làm hết đau bụng, sát trùng.
Công dụng: Quả chín dùng ăn có tác dụng tốt với bệnh đường ruột. Củ chuối hột thối có thể đắp chữa bỏng lửa. Thân cây nhét trùn (địa long) vào trong nướng vắt láy nước cho uổng có thể chữa tâm nhiệt phát cuồng nói sảng. Nước cây chuối hột cũng dùng trị bệnh đái đường: tìm cây nào đang nhú mọc bắp chuối chừng 20 cm, đem chặt ngang gốc để chừng 20 cm, lấy mác khoét một lỗ bằng cái tô, để một đêm, sáng ngày ra lấy chén mà múc nước uống, chỉ sau một tuần thì đái ra hết ngọt, hết kiến bu.
Đơn thuốc: Kỉnh nghiệm chữa Ung xỉ, xỉ máu, xì mủ của An Giang:
Vỏ trái chuối, hột Da trăn, Cam thảo nam.
Ba vị đốt thành than tồn tính, với ít hòn Phèn xanh phi, tán ra bột, hòa với dầu dừa, súc miệng sạch, thoa thuốc vào chân răng. Ngày bôi nhiều lần.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Cây phổ biến. Không đánh giá.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Cây thuốc An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.130.