Tên việt nam: Cà trái vàng
Tên khoa học: Solanum xan- thocarpum Schrad. et Wendl.
Tên đồng nghĩa: Cà tàu
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Ngọc Lan (tên khoa học là Magnoliophyta)
Bộ: Cà (tên khoa học là Solanales)
Họ: Cà (tên khoa học là Solanaceae)
Chi: Solanum (tên khoa học là Solanum)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Nguy cấp (EN)
Công dụng: Lợi tiểu, Thông mật, viêm đường tiết niệu
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Cây thảo cố khi hóa gỗ, rất nhiều gai, nhẵn hoặc cổ lông dài ở cành non và lá.
Lá mọc so le, cách quãng, hình trái xoan rộng hay bầu dục, chia thùy sâu nhiều hay ít, thườg có 5-9 thùy nhọn, dài 4- 6cm, rộng 3- 5cm ; cuống có gai nhiều dài 10-15mm.
Hoa màu xanh lơ, xếp 3-5 cái thành xim ngoài nách, có cuống.
Quả mọng tròn, đường kính 25mm, màu trăng trắng điểm xanh lơ, lúc chín màu vàng. Hạt dẹp có cánh, đường kính 4mm.
Bộ phận dùng: Toàn cây.
Phân bố, sinh thái: Cây phân bố ở Đông dương, Ấn Độ, Malaixia, Trung Quốc và Úc châu. Thường gặp trên đất khô cằn vùng rừng Bảy núi.
Tinh chất và tác dụng: Người ta đã chiết được từ cây một glycozit gọi tên là solasodin. Ta chưa sử dụng nhiều. Ở một số nước, người ta xem như cây Cà trái vàng có tác dụng long đờm, lợi tiểu. Thân, lá, quả đều đắng, có tính lợi trung tiện.
Công dụng: Được dùng trị bệnh hen suyễn, trị ho, một số bệnh về đường tiết niệu, sốt xuất tiết. Hạt đốt lên lấy hơi xông dừng trị đau răng. Người ta cũng dùng toàn cây làm thuốc lợi tiều trong bệnh thủy thũng.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Hiện nay loài cây này rất hiếm gặp trên vùng Bãy núi. Cần bảo vệ để mở rộng quần thể.
ThS. Bành Lê Quốc An. Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Cây thuốc An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.77.