Tên việt nam: Nhũ hương
Tên khoa học: Litsea Monopetala (Roxb.) Pers., (L. polyantha Juss.)
Tên đồng nghĩa: Mò gồ, Bời lời hoa thơm, cây Chập chạ trắng
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Thực vật
Bộ: Laurales (tên khoa học là Laurales)
Họ: Nguyệt quế (tên khoa học là Lauraceae)
Chi: Bời Lời (tên khoa học là Litsea)
Thuộc: Quí hiếm & đặc hữu
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Công dụng: Lỵ, Tiêu hóa, Tiêu chảy, đau bụng
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Cây gỗ cao 6m, có thể tới 13m, cánh có lông ngắn và sít nhau, màu xám hay hay nâu. Lá mọc so le, cách nhau cỡ 2cm, cuống 2cm, phiến lá dạng màng, hình bầu dục, thuôn và có kích thước rất thay đổi; mặt trên sáng bóng, mặt dưới màu nâu và có lông mịn. Hoa có lông màu trắng bạc, có cuống, hợp 4 cái một thành dạng tán trên một cuống chung cỡ 1cm ở nách lá. Hoa màu trắng. Quả mọng hình trái xoan, cao cỡ 1cm, màu đen, cuống quả có một cái đĩa phẳng ở đầu. Cây ra hoa tháng 2-5, có quả tháng 4-6.
Bộ phận dùng: Lá, rễ.
Phân bố, sinh thái: Loài phân bố ở Ấn Ðộ, Malaixia. Ở nước ta, cây mọc hoang ở vùng triền núi, sườn núi. Gặp trên núi Cấm huyện Tịnh Biên. Thu hái lá và rễ quanh năm, rửa sạch rễ thái nhỏ, phơi khô.
Tính chất và tác dụng: Lá khi đốt lên có mùi quế. Quả nguyên chứa 21% dầu và nếu tách khỏi hạch thì chứa tới 33%. Đó là một loại dầu chứa các glyxerit của axit lauric. Chưa rõ tác dụng.
Công dụng: Dân gian, thường dùng lá giã ra hơ nóng đắp để làm giảm đau và dùng rễ sắc uống chữa ỉa chảy.
Tình trạng khai khác và bảo vệ tại tỉnh An Giang: Phân bố trong thiên nhiên trên các đồi núi tại tỉnh An Giang. Nhưng do khai thác sử dụng thiếu bền vững trong thời gian dài làm kiệt quệ nguồn tài nguyên quý giá này, hiện nay còn rất ít so với trước, cần bảo vệ nguồn gen này.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn.
Nguồn: Cây thuốc An Giang, Võ Văn Chi, UBKH-KT, 1991, tr 418.