Tên việt nam: Ngải Máu
Tên khoa học: Kaempferia rotunda L.
Tên đồng nghĩa: Thiền liền tròn, Cấm địa la
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Ngọc Lan (tên khoa học là Magnoliophyta)
Bộ: Gừng (tên khoa học là Zingiberales)
Họ: Gừng (tên khoa học là Zingiberaceae)
Chi: Kaempferia (tên khoa học là Kaempferia)
Thuộc: Quí hiếm & đặc hữu
Tình trạng bảo tồn: Rất nguy cấp (CR)
Công dụng: Dạ dày
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Cây thảo cao 30 -40 cm có thân rễ hình cầu. Rễ con hình sợi ngắn kết thúc bằng một củ hình trứng. Lá xuất hiện sau khi cây ra hoa, thành búi 2 -5 lá có bẹ ở gốc, thuôn nhọn ở hai đầu, mặt trên loang lổ những vết sẫm, mặt dưới có ít lông. Cuống lá hình máng. Hoa màu tím, không cuống, mọc tụ tập ở gốc. Hoa rất thơm.
Bộ phận dùng: Rễ, củ.
Phân bố, sinh thái: Cây của vùng Ấn độ, Mã lai mọc hoang ở vùng núi và cũng được trồng vì hoa đẹp và thơm. Thu hái rễ củ vào mùa xuân, phơi khô.
Tính chất, tác dụng: Ngải máu có vị cay nồng, đắg hơi hăng, mùi thơm mạnh, tính bình, có tác dụng bổ huyết điều kinh, cầm máu, giảm đau.
Công dụng: Củ ăn được, lá non cũng ăn được. Người ta dùng củ chữa kinh bế đau bụng và hành kinh loạn kỳ, người gầy sạm, máu xấu, kinh ít. Còn dùng chữa đau dạ dày, đại tiện ra máu. Ở Ấn Độ, người ta dùng lá làm thuốc đắp và củ dùng chế mỹ phẩm. Ngày dùng 6 -10 g, dạng thuốc sắc, hoặc dùng 4 -8 g bột uống với nước cơm.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại tỉnh An Giang: Có gặp trên các đồi núi tại tỉnh An Giang. Nhưng hiện nay thì kích cở các quần thể này rất hiếm gặp so với trước, cần bảo vệ nguồn gen này.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn.
Nguồn: Cây thuốc An Giang, Võ Văn Chi, UBKH-KT, 1991, tr 395.