Tên việt nam: Gừng dại
Tên khoa học: zingiber zerumbet Sm
Tên đồng nghĩa: Gừng gió, riềng gió, ngải xanh, ngải mặt trời
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Thực vật
Bộ: Gừng (tên khoa học là Zingiberales)
Họ: Gừng (tên khoa học là Zingiberaceae)
Chi: Zingiber (tên khoa học là Zingiber)
Thuộc: Quí hiếm & đặc hữu
Tình trạng bảo tồn: Rất nguy cấp (CR)
Công dụng: Lỵ, Tiêu hóa, Tiêu chảy, đau bụng
Độ cao: 200m
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Cây thảo mọc cao 1-1,3m, có bẹ. Thân rễ dạng củ, phân nhánh, mặt ngoài màu trắng, bên trong màu vàng. Lá xếp sít nhau, hâu như không cuống, thuôn ngọn giáo, có mũi nhọn, thon ở gốc, màu lục sẫm ở trên, nhạt màu và có lông rải rác ở mặt dưới, với bẹ lá nhẵn trừ ở chóp. Cán hoa dài 30-60cm, bao phủ nhiều vảy lợp lên nhau, có lông ở ngoài. Bông hình trứng, với những lá bắc to áp sát, hình mắt chim, màu lục, đường kính 25 -30mm. Hoa vàng, tràng hoa có ống 2cm, với các thùy hình ngon giáo, cánh môi có 3 thùy, thùy giữa lớn hơn lõm tù, các thùy bên nguyên, ngắn hơn đến 3 lần. Quả mang hình bầu dục, hạt đen, ít có áo hạt trắng.
Bộ phận dùng: Thân rễ
Phân bố, sinh thái: Cây của phân vùng Ấn Độ, đông dương, thường gặp ở dưới tán rừng ẩm. Thân rễ có thể thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần. Có gặp trên các đồi núi dưới tán rừng phòng hộ của tỉnh An Giang.
Tính chất, tác dụng: Vị cay, đắng và khó chịu, tính ấm, có tác dụng tán phong hàn, huyết ứ, có tính kích thước, bổ,lọc máu.
Công dụng: Thường dùng trị trúng gió, đau bụng, sưng tấy đau nhức, trâu bò bị dịch. Ngày dùng 20 – 30 g, dạng thuốc sắc, thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Ở Campuchia, thường được dùng ngâm rượu (khoảng 160g trong 1 lít rượu) dùng uống ngày 2 – 3 ly để trị chứng khó chịu, chóng mặt có triệu chứng ngất, cả cho người mới sinh đẻ, trong vài tuần lễ đầu tiên sau khi sinh.
Đơn thuốc: Chữa trúng gió lạnh, bị ngất, chân tay giá lạnh: Gừng gió 20 -30g, giã nhỏ, chế thêm rượu, vắt lấy nước cốt uống. Dùng bã chưng nóng xoa xát khắp mình.
Chữa bị thương ứ máu, hay đơn độc sưng tấy: gừng gió, nghệ vàng, nghệ đen mỗi vị 15g, giã nhỏ, chết thêm 1 chén giấm, vắt lấy nước cốt uống, rồi lấy bã chưng nóng đắp vào chỗ đau.
Tình trạng bảo tồn tại tỉnh An Giang: Có xuất hiện trong thiên nhiên trên các núi dưới tán rùng phong hộ của tỉnh An Giang. Ngày nay được trồng làm cây cảnh. Hiện có trong các vườn cây thuốc của hộ gia đình. Khuyến khích bảo tồn nguồn gen này.
Thsỹ. Bành Lê Quốc An. Sưu tầm và biên soạn.
Nguồn: Cây thuốc An Giang, Võ Văn Chi, UBKH-KT, 1991, tr 271.