Tên việt nam: Đỗ trọng dây
Tên khoa học: Parameria Laevigata (Juss.) Moldenke (P. barbata (Bl.) Schum)
Tên đồng nghĩa: Đỗ trọng nam
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Thực vật
Bộ: Long đởm (tên khoa học là Gentianales)
Họ: Trúc đào (tên khoa học là Apocynaceae)
Chi: Parameria (tên khoa học là Parameria)
Thuộc: Quí hiếm & đặc hữu
Tình trạng bảo tồn: Tuyệt chủng (EX)
Công dụng: Mạnh gân cốt, bổ Thận
Đặc điểm nhận dạng:
Mô tả: Dây leo dài 5 -10m. Lá hình bầu dục, thuôn hay hình trái xoan ngược, có mũi nhọn dài, nhọn hay tù ở chớp, có góc ở gốc, mặt trên sáng bóng, có mép hơi cong về phía dưới, dạng màng, thường mọc đối có khi mọc vòng 3. Hoa trắng thơm xếp thành xim dạng ngù ở ngọn cây. Quả gồm 2 quả dại, dài 15 – 30cm, rễ đôi, nhọn, nhẵn. Mào lông mềm, trắng, dài 2 – 5cm. Mùa hoa quả từ tháng 8 đến tháng 4 năm sau.
Bộ phận dùng: Vỏ cây
Phân bố, sinh thái: Cây của vùng Ấn Độ, Mã lai, cây mọc trong rừng và lùm bụi. Có thể thu hái vỏ cây quanh năm, đem về thái phiến nhỏ, sao rồi phơi khô.
Tính chất, tác dụng: Cây chứa một chất nhựa như cao su. Đỗ trong dây có vị hơi cay, tính bình có tác dụng hành khí, hoạt huyết, Lại có tác dụng hạ nhiệt, giúp tiêu hóa.
Công dụng: Cũng dùng như đỗ trọng trị phong thấp, đau lưng, mỏi gối, thận hư. Ở Campuchia vỏ thường được dùng để chế loại thuốc uống hạ nhiệt khi bị sốt rét.
Liều dùng 4 – 12g, dạng thuốc sắc. Thường phối hợp các vị thuốc khác.
Đơn thuốc: Lưng gối đau mỏi, yếu liệt: Đỗ trọng dây, cầu tích, ngưu tất, thục địa, đương quy, ba kích mỗi vị 12g sắc uống.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Hiện được gây trồng trong các vườn cây thuốc của hộ gia đình. Khuyến khích bảo tồn nguồn gen này.
Thsỹ. Bành Lê Quốc An. Sưu tầm và biên soạn.
Nguồn: Cây thuốc An Giang, Võ Văn Chi, UBKH-KT, 1991, tr 252.