Tên việt nam: Mạy bông
Tên khoa học: Bambusa tulda Roxb
Địa danh: Chưa xác định
Cấp bậc sinh giới
Ngành: Hạt kín (tên khoa học là Angiospermae)
Bộ: Hòa Thảo (tên khoa học là Poales)
Họ: Hoà thảo (Tre trúc) (tên khoa học là Poaceae 2)
Thuộc: Thông thường
Tình trạng bảo tồn: Không dánh giá (NE)
Đặc điểm nhận dạng:
Tên đồng nghĩa: Dendrocalamus tulda (Roxb.) Voi
Đặc điểm hình thái:
Mạy bông là loài tre mọc cụm, thân cao 7 – 15 m, đường kính 5 – 7 cm, nhẵn, màu xanh lá cây khi non và xanh lá cây xám khi trưởng thành, đôi khi có sọc vàng. Phần thân dưới thường không có cành. Lóng dài 40 – 70 cm, có một vòng trắng dưới đốt. Vách mỏng.
Bẹ mo có gốc bẹt, đáy rộng, cao 15 – 20 cm, đỉnh tròn hoặc cắt ngang. Lưỡi mo hẹp. Hai tai mo không đều nhau, tai mo to gắn liền với phiến mo. Một bên bẹ mo có nếp nhăn rất đặc trưng và dễ nhận biết.
Đặc điểm sinh học:
Phiến lá hình thuôn hẹp hay thuôn, dài 15 – 25 cm, rộng 2 – 4 cm.
Ra hoa theo chu kỳ trên một vùng lớn và chu kỳ ra hoa được thông báo là 30 – 60 năm. Gần đây nhất ra hoa vào năm 1986 ở Dehra Dun (ấn Độ). Sau khi ra hoa thì cả bụi và các bụi của cả vùng đều chết. Tái sinh lại bằng hạt trên toàn vùng.
Phân bố địa lý:
Có phân bố tự nhiên từ ấn Độ, Bănglađét, Myanma, Thái Lan và Việt Nam. Mạy bông được trồng nhiều ở vùng Tây Bắc, nhất là Sơn La.
Giá Trị:
Cây được dùng cho nhiều mục đích như sản xuất đồ gia dụng, làm mành, thu hoạch măng ăn.
Tình trạng Bảo tồn tại An Giang:
Chưa có thông tin xác nhận là có phân bố tự nhiên trong tỉnh. Giới thiệu thêm thông tin để tham khảo.
Th. Sỹ. Bành Lê Quốc An
Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Nguyễn Hoàng Nghĩa (2005), Tre trúc Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.